Thứ Sáu, 04/10/2024

Hướng dẫn biện pháp kỹ thuật quản lý lúa cỏ

Thứ Ba, 06/09/2022
Cục Bảo vệ thực vật đã ban hành hướng dẫn biện pháp quản lý lúa cỏ tổng hợp và phương pháp điều tra, thống kê diện tích nhiễm để các địa phương phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn nông dân áp dụng phòng chống lúa cỏ, giảm thiệt hại cho người nông dân

Lúa cỏ còn có nhiều tên gọi khác như lúa ma, lúa hoang, lúa dại,… cùng là loài lúa như lúa trồng (tên khoa học là Oryza sativa) nhưng là loài phụ (nhiều tài liệu sử dụng tên khoa học là Oryza sativa f. spontanea). Lúa cỏ không có các đặc điểm về năng suất, chất lượng mà con người mong muốn. Lúa cỏ gây ảnh hưởng đến canh tác lúa thông qua việc cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng làm giảm sinh trưởng của cây với lúa trồng; lẫn hạt lúa cỏ làm giảm chất lượng thóc, gạo (lẫn tạp). Lúa cỏ có thời gian sinh trưởng ngắn, chín sớm, hạt rất dễ rụng nên có khả năng lây lan nhanh, khó phòng trừ và có thể gây thất thu năng suất, thậm chí mất trắng.

Tại Việt Nam, lúa cỏ đã phát sinh gây hại ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ rất sớm, đặc biệt do tập quán gieo sạ nên rất khó phòng chống lúa cỏ. Trong vài năm gần đây, nông dân các tỉnh phía Bắc chuyển từ cấy sang gieo sạ đã làm lúa cỏ gia tăng. Năm 2022 diện tích nhiễm lúa cỏ khoảng 2.000 ha với các mức độ nhiễm khác nhau.

I. Đặc điểm, tác hại và nguyên nhân lây lan của lúa cỏ

1. Đặc điểm hình thái và sinh trưởng:

Cây lúa cỏ

- Giai đoạn 5-10 ngày sau nảy mầm: Cây lúa cỏ sinh trưởng nhanh, thân mảnh và đứng, phiến lá nhỏ, có màu vàng hơn lúa trồng.

- Giai đoạn đẻ nhánh đến đứng cái: Cây lúa cỏ đẻ nhánh kém, thân mảnh, lóng vươn dài, lá thưa, phiến lá nhỏ, khóm lúa có màu vàng hơn lúa trồng.

- Giai đoạn trỗ bông: Lúa cỏ trỗ sớm hơn lúa trồng từ 5-7 ngày, thời gian trỗ kéo dài, trên bông có hạt đang phơi màu, hạt ngậm sữa, hạt chắc xanh nên không có sự đồng đều về màu sắc bông lúa như lúa trồng; hạt có râu dài hoặc không có râu; hạt có dạng thon dài hoặc bầu dục mầu vàng - vàng sẫm, có dạng hạt có mỏ tím, tỉ lệ lép cao.

 

Cây lúa cỏ khi trỗ

- Một số đặc điểm khác: Thời gian sinh trưởng ngắn hơn, hạt lúa rất dễ rụng ngay cả khi có gió thoảng qua. Sau khi hạt rụng xuống nếu gặp điều kiện thuận lợi có thể nảy mầm ngay, nếu gặp điều kiện bất thuận (khô hạn, vùi sâu trong bùn, …) hạt có thể ngủ nghỉ nhưng vẫn có sức sống cao, duy trì sức nảy mầm trong vài năm. Do vậy lúa cỏ tồn tại, tích tụ lâu trong đất và tăng dần số lượng qua các vụ. Khả năng nảy mầm của lúa cỏ bị ảnh hưởng rất lớn ở tuổi hạt, kết cấu đất, chế độ nước trên đồng ruộng và độ sâu bị chôn vùi trong bùn.

Một số dạng hạt lúa cỏ

Hạt lúa cỏ

2. Tác hại của lúa cỏ

Lúa cỏ có khả năng lây lan nhanh làm thất thu năng suất và khó phòng chống. Lúa cỏ sinh trưởng và phát triển rất mạnh, cạnh tranh trực tiếp về dinh dưỡng và ánh sáng với lúa trồng làm giảm năng suất của lúa. Lúa cỏ có thể gây thất thu năng suất từ 15-20%, thậm chí mất trắng, đồng thời lây nhiễm càng trầm trọng cho những vụ sau. Ruộng bị nhiễm lúa cỏ nặng làm giảm phẩm chất gạo cũng như giảm giá trị tiêu dùng và xuất khẩu (chỉ tiêu độ lẫn tạp).

Ruộng bị nhiễm lúa cỏ nặng phải cắt bỏ 

3. Nguyên nhân lúa cỏ lây lan

- Hạt giống bị lẫn lúa cỏ.

- Thường xuyên sử dụng lúa thương phẩm làm giống nên lúa bị phân ly, thoái hóa và tính chất di truyền có xu hướng trở lại các đặc tính của nguồn gốc lúa hoang dại ban đầu (hiện tượng lại giống) và xuất hiện lúa cỏ với nhiều kiểu hình khác nhau.

- Người dân tự để giống lúa, nhất là sử dụng giống trong vùng đã nhiễm lúa cỏ để gieo cấy cho vụ sau làm gia tăng lúa cỏ trên đồng ruộng.

- Thời gian chuyển vụ ngắn nên nguồn hạt lúa cỏ lưu tồn trên đồng ruộng từ những vụ trước chưa được xử lý.

- Hạt lúa cỏ có thể di chuyển, phát tán theo nguồn nước, nhờ chim hoặc theo máy móc nông cụ (máy làm đất, máy gặt, …) từ ruộng này sang ruộng khác, nơi này sang nơi khác.

II. Biện pháp quản lý lúa cỏ

1. Chọn giống lúa đảm bảo chất lượng

- Sử dụng giống lúa đạt tiêu chuẩn chất lượng.

- Không để giống lúa đối với ruộng đã bị nhiễm lúa cỏ từ vụ trước; loại bỏ hạt lép lửng trước khi ngâm ủ.

2. Biện pháp canh tác

a. Chuyển đổi phương thức gieo cấy

Những vùng có tập quán sạ lan (gieo vãi) mà nhiễm lúa cỏ cần chuyển sang sạ hàng hoặc cấy (cấy tay hoặc cấy bằng máy) để giúp dễ dàng làm cỏ sục bùn và dễ nhận biết, loại bỏ lúa cỏ ngay từ khi cây còn nhỏ

b. Luân canh cây trồng

Những khu vực đã nhiễm lúa cỏ nhiều cần luân canh lúa với cây trồng cạn hoặc cây trồng nước nhưng khác họ để dễ dàng nhận biết, loại bỏ hầu hết lúa cỏ sau 1-2 vụ.

c. Phòng chống lúa cỏ khi làm đất

- Khi cho nước vào ruộng để làm đất cần đặt lưới chắn hạt lúa cỏ tại đầu đường dẫn nước vào ruộng; nếu có lúa cỏ, hạt thóc lép, lửng trôi dạt vào góc ruộng thì tiến hành vớt đem ra khỏi ruộng và tiêu hủy.

- Những ruộng bị nhiễm nặng lúa cỏ ở vụ trước nhưng chưa được xử lý thì đầu vụ sau khi thời tiết còn thuận lợi, nền nhiệt còn cao, lấy nước và tiến hành lồng bừa nông, san phẳng rồi rút cạn nước ruộng (như gieo mạ) để nhử lúa cỏ nẩy mầm. Khi cây lúa cỏ có 3 - 5 lá tiến hành lấy nước cày lật úp, làm đất nhuyễn để diệt lúa cỏ ngay khi còn non. Nếu có đủ thời gian, biện pháp này cần làm lặp lại 2 - 3 lần sẽ diệt được hầu hết hạt lúa cỏ bị vùi trong đất.

d. Ngăn chặn lây lan lúa cỏ theo máy móc

Vệ sinh máy gặt, máy cày để hạt lúa cỏ không theo máy móc lây lan sang khu ruộng khác, từ vùng bị nhiễm lúa cỏ sang vùng không bị nhiễm lúa cỏ.

e. Nhổ, khử lúa cỏ sau khi mọc

- Giai đoạn lúa đẻ nhánh – phân hóa đòng:

+ Đối với lúa cấy hoặc sạ hàng: Làm cỏ kết hợp xục bùn bằng tay, bằng dụng cụ hoặc bằng máy đồng thời diệt được lúa cỏ mọc ngoài khóm, ngoài hàng lúa.

+ Đối với lúa gieo sạ: Đi theo từng lối hoặc băng, quan sát kỹ và nhổ bỏ những cây lúa có đặc điểm khác với giống lúa trồng về kiểu hình (màu sắc thân, màu sắc lá, chiều cao cây, góc lá, độ rộng phiến lá, …).

- Giai đoạn lúa đòng – trỗ: Cắt các bông lúa cỏ khi mới trỗ - ngậm sữa; riêng bông lúa cỏ chắc xanh - chín phải cắt cho vào túi tránh rơi vãi hạt và đem tiêu hủy (cho gia cầm ăn hoặc đốt). Tuyệt đối không được để bông lúa cỏ đã sắp chín – chín trên ruộng, bờ ruộng hoặc vứt xuống kênh mương dẫn nước.

Khử lúa cỏ trên ruộng khi mới trỗ

3. Biện pháp sinh học

- Khi gặt xong có thể đưa vịt vào ruộng để ăn các hạt lúa rụng trên ruộng trong đó có cả hạt lúa cỏ.

- Những ruộng nhiễm nặng lúa cỏ không cho thu hoạch cần tiêu hủy toàn bộ ruộng (bằng cách cắt cho gia súc ăn hoặc cày vùi), chậm nhất trước khi những bông lúa cỏ trỗ đầu tiên vào giai đoạn ngậm sữa. Khi cày vùi có thể sử dụng các chế phẩm vi sinh để nhanh phân hủy rơm rạ và cả hạt lúa cỏ.

4. Biện pháp hóa học

- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất Pretilachlor trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam.

- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất và tuân thủ nguyên tắc 4 đúng.

III. Phương pháp điều tra, thống kê diện tích nhiễm

1. Điều tra lúa cỏ

* Điểm điều tra: Điều tra ít nhất 10 điểm ngẫu nhiên nằm trên đường chéo của khu vực điều tra. Điểm điều tra phải cách bờ ít nhất 01 m.

* Số mẫu điều tra của một điểm:

- Lúa sạ:

+ Giai đoạn trước đẻ nhánh: 01 khung (40cm x 50cm)/điểm.

+ Giai đoạn sau đẻ nhánh: 01 m2/điểm.

- Lúa cấy: 01 m2/điểm.

- Quy đổi ra tỷ lệ (%) lúa cỏ: Số cây lúa cỏ/số cây lúa trung bình 01 m2 của ruộng điều tra) x 100.

2. Quy định tỷ lệ (%) nhiễm lúa cỏ để thống kê diện tích nhiễm

- Diện tích nhiễm nhẹ: Tỷ lệ từ 5 - 10% số cây lúa cỏ.

- Diện tích nhiễm trung bình: tỷ lệ >10 - 20% số cây lúa cỏ.

- Diện tích nhiễm nặng: tỷ lệ >20% số cây lúa cỏ.

Nguyễn Thị Hồng - Chi cục Trồng trọt và BVTV