Thứ Sáu, 04/10/2024

Giới thiệu một số sâu bệnh hại chính trên cây dưa hấu

Thứ Sáu, 05/08/2022

Dưa hấu (Citrullus lanatus) là một loài thực vật thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), có giá trị dinh dưỡng và thương mại cao. Ở Việt Nam, diện tích trồng dưa hấu ngày càng tăng, sản xuất dưa hấu mang lại thu nhập cao, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Người trồng dưa hấu cần quan tâm đến một số đối tượng dịch hại:

1. Sâu hại dưa hấu

a) Bọ dưa

Bọ trưởng thành có cánh cứng, màu vàng nhạt to bằng hạt đậu xanh, đẻ trứng quanh gốc dưa, cắn phá vào sáng sớm hoặc chiều mát Bọ dưa gây hại nặng khi cây còn nhỏ, lúc 4 - 5 lá. Ấu trùng sau khi nở, sống dưới đất, ăn gặm rễ cây và đục vào gốc làm dưa chết héo. Phòng trừ: Sau khi thu hoạch, gom dây dưa lại để thu hút thành trùng tới, xong dùng thuốc trừ sâu để tiêu diệt. Bảo vệ cây con tích cực lúc ban đầu. Khi thấy thành trùng bay trong ruộng dưa mà mật số còn ít, sáng sớm hay chiều tối nên soi đèn bắt. Sử dụng thuốcPolytrin, Selecron... phun lúc chiều mát.

b) Sâu vẽ bùa

âu trưởng thành màu đen, họ cánh màng, đẻ trứng trên lá, dòi đục giữa hai lớp biểu bì lá thành đường hầm, làm lá bị tổn thương, giảm diện tích quang hợp (Hình 7). Sâu gây hại vào vụ Xuân Hè. Thành trùng hoạt động mạnh từ 7 - 9 giờ sáng và từ 4 - 5 giờ chiều.

Phòng trừ :

- Biện pháp canh tác: Làm sạch cỏ xung quanh ruộng dưa trước khi xuống giống. Cày sâu sau khi thu hoạch. Sử dụng màng phủ nông nghiệp. Xuống giống đồng loạt.

- Biện pháp sinh học: Ngoài thiên nhiên ruồi có rất nhiều thiên địch. Nếu áp dụng thuốc trừ sâu nhiều sẽ làm cho mật độ (mật số) ruồi tăng cao và tạo thành dịch dễ dàng.

- Biện pháp hoá học: Nếu mật độ thiên địch trên 50% không cần áp dụng thuốc để trừ ruồi. Nhưng nếu mật độ thiên địch thấp,không thể khống chế mật độ ruồi thì nên sử dụng thuốc khi cây con bắt đầu có lá mầm và lá thật đầu tiên. Ở những vùng ruồi có điều kiện nhân mật số nhanh thì cần phun thuốc lại khi cần.

c) Bọ trĩ

Gây hại vào vụ Xuân, nhất là thời tiết khô hạn, ấu trùng trắng, sau trưởng thành màu sẫm, chích hút ngọn dưa làm chùn ngọn, khô nõn. Bọ trĩ kháng thuốc mạnh, là trung gian truyền vi rút.

Phòng trừ : Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên; vệ sinh đồng ruộng để giảm nguồn bọ trĩ sọc vàng tồn tại và lây lan. Trồng cây trong nhà lưới. Gieo trồng cây con khỏe, phủ đất bằng màng phủ nông nghiệp màu bạc. Điều tra chính xác, phun trừ kịp thời những lứa bọ trĩ sọc vàng gây hại giai đoạn đầu ở trên cây. Sử dụng các loại thuốc BVTV đặc trị để phòng trừ bọ trĩ. Nên phun lúc sáng sớm, khi còn sương, lúc đó chúng khó di chuyển. Ngoài ra còn một số loại sâu ăn lá, rệp phá cây lúc cây phát triển thân lá mạnh, cần phòng trừ kịp thời ngay từ lúc mật độ sâu còn ít.

2. Bệnh hại dưa hấu

a) Bệnh chết thắt cây con

Do nấm trong đất Rhizoctonia solani, Pythium spp., Fusarium solani gây ra, thường xuất hiện lúc cây 2 lá mầm đến có lá thật, khi thời tiết nóng, ẩm, tưới quá nhiều, đất làm bầu chặt dí .Phòng trừ :

- Biện pháp canh tác: Tạo điều kiện thoát nước tốt cho ruộng trồng, liếp cao, dễ thoát nước mặt. Nên ươm cây trong bầu và áp dụng các biện pháp phòng trừ ngay khi gieo hạt: đất nhẹ sạch, phân bón cân đối, phân chuồng ủ hoai mục.

- Biện pháp hoá học: Phát hiện sớm, nếu thấy bệnh có thể sử dụng các thuốc BVTV đặc trị.

b) Bệnh chảy nhựa thân

Do nấm Mycosphaerella melonis gây ra. Vết bệnh hình bầu dục, lõm, màu vàng nhạt, nhựa cây tứa ra màu nâu đỏ. Trên lá dưa hấu đốm bệnh úng nước không góc canh thường xuất hiện từ bìa với vòng đồng tâm nâu sậm, sau chuyển nâu đen hay đen. Tâm vết bệnh có nhiều quả thể nhỏ (thể sinh sản hữu tính). Trên thân, vết bệnh hình bầu dục, xám trắng hơi lõm ứa ra những giọt nhựa màu nâu đỏ sau chuyển thành nâu đen và khô cứng. Bệnh già vỏ thân bị nứt nẻ trên có nhiều quả thể nấm đen nhỏ. Trên trái lúc đầu vết bệnh là những đốm nhũn nước, sau đó khô nâu và nứt nẻ.

Phòng trừ :

- Biện pháp canh tác: Thường xuyên dọn sạch cỏ dại trong ruộng, tạo điều kiện thông thoáng cho cây. Tốt nhất sử dụng màng phủ đất hạn chế mưa bắn.

- Biện pháp hoá học: Thường xuyên thăm đồng phát hiện bệnh sớm và phun thuốc BVTV đặc trị. Ngừng bón phân khi cây bị bệnh.

c) Bệnh thán thư

Do nấm Colletotrichum lagenarium gây hại trên lá, thân, quả trong điều kiện nhiệt độ không khí cao, bệnh nặng gây thối quả. Bệnh thuộc loại lây truyền qua giống, tồn tại trên tàn dư cây trồng, trên cây trồng mới hoặc cỏ thuộc họ bầu bí. Bào tử phát tán nhờ gió và mưa bắn nước.

Phòng trừ:

- Biện pháp canh tác: Trồng giống chống bệnh. Hạn chế cỏ dại trong ruộng để ruộng thông thoáng và giảm ẩm độ. Nên sử dụng màng phủ đất hạn chế bệnh. Khi cây bị bệnh ngưng bón đạm và ngưng tưới phun.

- Biện pháp hoá học: Phun các thuốc trừ bệnh đặc trị đến khi bệnh không lây lan.

d) Bệnh phấn trắng

Do nấm Erysiphe cichoracearum, Sphaerotheca fuligena gây ra. Đầu tiên là các đốm vàng nhợt trên lá và thân. Trên bề mặt, vết bệnh hình thành các đám phấn bào tử trắng thấy rõ. Đám bào tử phát triển bao phủ toàn bộ bề mặt lá. Lá đổi màu sang nâu và héo nhanh chóng. Bệnh phát triển ở mọi điều kiện nhiệt độ miễn sao đủ độ ẩm và có bào tử nấm có thể nẩy mầm.

Phòng trừ : Dọn sạch cỏ trong vườn (nhất là những cây hoang dại thuộc họ bầu bí) để ruộng đủ độ thông thoáng, hạn chế ẩm độ. Dùng màng phủ đất để hạn chế cỏ dại.

e) Bệnh héo vàng hay héo rũ

Do nấm Fusarium oxysporum niveum gây ra. Nấm có thể tấn công vào cây ở mọi giai đoạn sinh trưởng. Bệnh làm chết hoặc lùn cây con. Trên cây lớn bệnh gây héo cây vào trưa trong vài ngày rồi chết rũ. Bó mạch thân biến màu trở thành vàng hoặc nâu. Nấm này tồn tại trong đất khá lâu.

Phòng trừ :

- Biện pháp canh tác: Luân canh dưa hấu với cây khác họ, nếu đất đã bị nhiễm, ngừng trồng dưa 3 - 5 năm, ghép dưa hấu lên gốc bầu.

- Biện pháp hoá học: Phun phòng cho cây khi chưa có bệnh xuất hiện. Sử dụng thuốc BVTV đặc trị. Các loại thuốc bệnh nên phun lúc sáng sớm để diệt hết các bào tử nấm đang nảy mầm nhờ sương đọng trên lá.

f) Bệnh héo vi khuẩn

Do vi khuẩn Erwinia tracheiphila gây ra Lá bị bệnh héo đột ngột sau đó héo cả dây và dẫn đến tình trạng héo vĩnh viễn, chết nhanh trong 2 ngày. Vi khuẩn được sinh sôi ở bó mạch của cây. Khi cắt ngang thân có thể thấy keo trong; nếu nhúng vào ly nước trong từ vết cắt sẽ tuôn các dòng keo trắng.

Phòng trừ : Bệnh rất khó trừ nên phòng bệnh bằng biện pháp tổng hợp, luân canh, vệ sinh đồng ruộng. Chọn giống ít nhiễm, tỉa bỏ những cây bệnh nhằm ngăn chặn sự lan truyền thứ cấp. Phòng trừ bọ cánh cứng (môi giới truyền bệnh) bằng một trong các loại thuốc BVTV đặc trị theo khuyến cáo.

g) Bệnh loang lổ quả

Do vi khuẩn Pseudomonas pseudoalcaligenes gây ra. Trên vỏ quả có các vệt hay đám màu lục vàng sẫm màu. Vết bệnh thoạt đầu thể hiện như bị dính vệt nước nhỏ hơn 1 cm, nhưng sau 7 - 10 ngày vết bệnh loang nhanh che phủ khắp vỏ quả. Khi vết bệnh tăng kích thước, thì quanh chỗ nhiễm ban đầu chuyển thành hư thối. Giai đoạn tiếp theo, biểu bì vỏ quả bị vỡ và từ chỗ vỡ chảy ra một chất dịch mầu hổ phách trong suốt. Bệnh truyền qua hạt giống. Điều kiện cho bệnh phát triển mạnh là thời tiết nóng và ẩm.

Phòng trừ : Sử dụng giống và cây con sạch bệnh. Cánh đồng bị nhiễm bệnh cần được luân canh với cây khác họ bầu bí trong 3 năm. Áp dụng định kỳ phun thuốc gốc đồng để giảm bớt nguồn bệnh.

Dương Thị Hằng - Chi cục Trồng trọt và BVTV.